bon-phan-cho-cay-chom-chom-sai-triu-qua

Bón phân cho cây chôm chôm sai trĩu quả

Bón phân cho cây chôm chôm sai trĩu quả. Với quy trình sau chăm bón trên, bà con có thể đạt năng suất trung bình 20 tấn chôm chôm/ha.

Bón phân cho cây chôm chôm sai trĩu quả

Bón phân gì cho cây chôm chôm?

– Trước khi bón phân, cần xác định cây chôm chôm đang ở giai đoạn nào của quá trình phát triển và phát dục để chọn lựa phân bón cho phù hợp. Đối với cây chôm chôm, để đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng cho cây nên sử dụng các loại phân NPK dạng hỗn hợp với hàm lượng dinh dưỡng cao….. Điển hình là các dòng phân NPK công nghệ ure hóa lỏng của Công ty liên doanh phân bón Hữu Nghị.

– Khác với các dòng phân đơn thông thường, NPK Hữu Nghị ngoài việc có một hàm lượng lý tưởng đạm, lân, kali, còn đặc biệt được phối trộn thêm nguồn dinh dưỡng trung vi lượng cần thiết cho cây như Ca, Mg, S, Si, Bo, Cu, Zn… Khả năng tan tốt, tan hết để cây trồng có thể hấp thu được dinh dưỡng. Với những ưu điểm khi sử dụng này, sẽ vừa giúp cây chôm chôm phát triển toàn diện vừa tiết kiệm được rất nhiều công sức lao động cho bà con.

bon-phan-cho-cay-chom-chom-sai-triu-qua

 Các giai đoạn bón phân cho cây chôm chôm

Nếu trong giai đoạn cây đã cho trái, bón theo hình chiếu của tán cây, chia 4 đợt bón phù hợp với từng giai đoạn sinh trưởng, phát triển của cây.

– Bón lót 

Ngoài bón lót trước khi gieo trồng, sau mỗi lần thu hoạch và đốn tỉa, bà con cũng cần bón bổ sung phân hữu cơ cho cây để phục hồi dinh dưỡng trong đất. Bà con sử dụng phân bón hữu cơ Anfa Batorganic để bón phục hồi cho cây chôm chôm. Với hàm lượng lên đến 85% hữu cơ và một tỷ lệ nhỏ N, P, K, TE, đặc biệt bổ sung axit Humic và axit Fluvic, phân hữu cơ Anfa Batorganic sẽ giúp kích thích sự phát triển của rễ cây và giúp cây chôm chôm hồi sức nhanh chóng sau một vụ trĩu quả.

Bón 2 – 3 kg/1 cây phân bón hữu cơ sinh học Anfa Batorganic.

– Bón thúc 

+ Bón thúc 1: Để thúc đẩy quá trình sinh trưởng, tạo cành và lá mới cho cây, bà con bón NPK 16.16.8 cho chôm chôm ngay sau khi thu hoạch. Cây chôm chôm sẽ nhanh chóng hồi xanh, phát triển thân cành xum xuê tạo nền tảng hoàn hảo cho quá trình ra hoa, kết trái.

+ Bón thúc 2: Bón trước khi ra hoa

Bón NPK 15.15.15 để thúc cho cây chôm chôm trước khi ra hoa. Hàm lượng cân đối đạm, lân, kali trong dòng phân này giúp hoa chôm chôm ra đồng loạ, tăng tỷ lệ đậu quả.

Thời kỳ trước khi ra hoa bà con phun MKP cho Chôm chôm để tăng khả năng đậu hoa, hạn chế tối đa nguy cơ rụng quả non.

Bón thúc 3: Sau khi đậu quả

Được tính từ sau thụ phấn đến khi trái phát triển tối đa về thể tích. Giai đoạn này cần bón cân đối các chất đa lượng NPK và cả các chất trung và vi lượng nhằm giúp hạn chế tỷ lệ rụng trái, tăng nhanh việc phát triển thể tích trái và vỏ trái tạo điều kiện cho việc tăng số quả mỗi cây và tăng trọng lượng trung bình quả. Có thể bón một trong những loại phân NPK như NPK 13.13.13, NPK 15.15.15.

+ Bón thúc 4: Bón thúc nuôi quả

Dòng phân chuyên dụng cho quá trình nuôi trái chôm chôm là phân NPK 16.7.17. Do có tăng cường hàm lượng Kali trong thành phần, phân NPK 16.7.17 sẽ kích thích quả chôm chôm lớn nhanh, quả to, cùi dày và có màu sắc tươi tắn.

Để tăng phẩm chất quả chôm chôm, ngoài bón NPK, bà con bổ sung phun phân bón qua lá Kali Sulphate với liều lượng 50g/bình 18-20 lít nước cho cây.    Kết hợp các biện pháp trồng xen cây hoặc tháp, ghép cành chôm chôm đực, trong vườn theo tỉ lệ 1:8 hoặc 1:10, kết hợp nuôi ong mật trong vườn chôm chôm sẽ mang lại hiệu quả vô cùng tối ưu.

bi-quyet-trong-dau-tay-hai-khong-het-qua

Bí quyết trồng dâu tây hái không hết quả

Bí quyết trồng dâu tây hái không hết quả. Cây dâu tây thích hợp trồng trên đất thịt nhẹ, có hàm lượng chất hữu cơ cao, đất giữ ẩm nhưng phải thoát nước tốt. Đất giàu chất hữu cơ cây dâu tây sẽ phát triển tốt, năng suất cao và kéo dài được thời gian thu hoạch quả. Độ pH của đất thích hợp từ 6 – 7.

bi-quyet-trong-dau-tay-hai-khong-het-qua

Bón phân gì cho vườn dâu tây rộ trái?

Với giống cây trồng khá nhạy cảm như dâu tây,  cần một chế độ chăm sóc tỉ mỉ, chu đáo cùng quy trình bón phân đúng kỹ thuật. Trong suốt thời gian cây phát triển cần thường xuyên bón phân cho cây bằng một số loại phân hữu cơ hoặc phân NPK đa nguyên tố, tránh sử dụng các dòng phân đơn với tỷ lệ dinh dưỡng mất cân đối, dễ khiến dâu tây bị ngộ độc.

Các thời kỳ bón phân cho dâu tây cụ thể như sau:

Bón lót 

Phân chuồng là loại phân bón lót lý tưởng cho hầu hết các loại cây trồng ngoại trừ dâu tây. Do quả dâu tây mọc quanh gốc, tiếp xúc gần với đất. Hơn nữa quả dâu lại rất mong manh, không có vỏ cứng bao bọc nên dễ tổn thương và dễ bị tấn công bởi các loại sâu bệnh gây hại. Các loại phân bò, phân gà nếu chưa thực sự được hoai mục hoàn toàn là điều kiện thuận lợi cho loài ruồi sống trong chuồng trâu bò sinh sôi và phát triển, đây là loài gây hại nghiêm trọng cho trái dâu tây.

Do đó để bón lót cho dâu tây, bà con dùng phân hữu cơ tổng hợp Anfa Batorganic kết hợp phân NPK 16.16.8 để bổ sung dinh dưỡng cho đất. Giúp cây con nhanh chóng hồi xanh và phát triển khỏe mạnh.

Bón thúc lần 1

Thời kỳ chuẩn bị ra hoa, bà con sử dụng phân NPK 13.13.13 hòa loãng với nước và tưới vào gốc cây dâu tây. Chú ý không để phân bám vào lá. Một cách bón khác bà con có thể áp dụng là bới một bên rạch sâu 10 – 15cm, rải phân và tủ đất để cây hấp thụ từ từ. Kỹ thuật bón phân này cho hiệu quả cao trên những diện tích dâu tây lớn.

Nước tưới cho dâu tây cần có chất lượng thực sự tốt, bởi vì dâu tây rất nhạy cảm với muối, đặc biệt là clorua (chứ không phải natri). Do đó, cần trang bị hệ thống nước tưới sạch cho dâu tây, có thể sử dụng nước vo gạo để tưới cho cây, nước gạo sẽ lên men trong đất giúp cây phát triển tốt hơn rất nhiều. Tuy nhiên chỉ tưới nước gạo khi cây đã trồng được 1 tuần. Không tưới nếu cây chưa bám rễ.

Bón thúc lần 2 

Trong suốt giai đoạn nuôi quả, bà con chia nhỏ làm nhiều lần bón phân. Lựa chọn dòng anfa german soper 3 chuyên nuôi quả dâu tây. Quả dâu tây mọc quanh gốc nên rất dễ dính phân bón nếu bón theo cách tưới nước thông thường. Vì vậy bà con nên bới đất và rạch sâu 10-15cm, rải phân, lấp đất sau đó mới tưới nước để cây hấp thụ an toàn.

Chu kỳ kinh doanh của cây dâu thu hoạch trái kéo dài đến 02 năm hoặc hơn. Đối với phân bón cho dâu tây, nguyên tắc chung là bón ít nhưng bón nhiều lần trong năm. Lượng phân có thể tăng hay giảm tùy thuộc vào sức sinh trưởng, phát dục, giai đoạn bội thu, chu kỳ ra trái của cây.

dau-tu-vao-nong-nghiep-la-dieu-lai-chau-khuyen-khich-cac-doanh-nghiep

Đầu tư vào nông nghiệp là điều Lai Châu khuyến khích các doanh nghiệp

Đầu tư vào nông nghiệp là điều Lai Châu khuyến khích các doanh nghiệp.

Cá nước lạnh có tiềm năng phát triển

Đoàn công tác đã đến thăm trang trại chăn nuôi lợn an toàn sinh học của ông Trần Văn Tuấn tại thôn Pa Hảo, xã Bản Giang, huyện Tam Dương.

Ông Tuấn cho biết, hàng trăm tỷ đồng đã được đầu tư phát triển trang trại từ năm 2017. Trong bối cảnh phức tạp của dịch tả lợn châu Phi, các kỹ sư chăn nuôi và mười nhân viên bổ sung đã được cung cấp nhà ở và yêu cầu làm việc tại chỗ trong hai tháng.

“Hiện nay, Công ty Cổ phần C.P Việt Nam cung cấp tất cả các giống vật nuôi, cũng như thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y. Doanh nghiệp bao tiêu tất cả các mặt hàng đến thời điểm xuất khẩu và trả 4.500 đồng/kg lợn sống”, ông Tuấn nói và đánh giá lợi nhuận trong bối cảnh giá lợn không ổn định hiện nay và khẳng định đây là lợi nhuận đáng kể và ổn định.

dau-tu-vao-nong-nghiep-la-dieu-lai-chau-khuyen-khich-cac-doanh-nghiep

Cách tiếp cận chăn nuôi của ông Tuấn được Thứ trưởng Bộ NN&PTNT đánh giá cao khi tỷ lệ lợn chết và thiệt hại dưới 1,5%. “Hiện tại, nông nghiệp an toàn sinh học và một khu vực không có dịch nằm cách xa các khu dân cư đang phát triển mạnh. Để sản xuất thịt lợn chất lượng cao, điều quan trọng là phải tăng cường kiểm soát chế độ ăn uống của động vật và sử dụng kháng sinh. Ngay cả việc điều tiết thức ăn về độ sạch và an toàn thực phẩm cho con người”, Thứ trưởng nói.

Ngoài ra, lãnh đạo ngành nông nghiệp đã đến thăm địa điểm sản xuất giống phức tạp (cá hồi, cá tầm) và các sản phẩm cá lạnh thương phẩm của Hợp tác xã Sản xuất và Dịch vụ nông nghiệp xã Ngũ Chi Sơn.

Giám đốc HTX Vũ Văn Cảnh cho biết, vùng nuôi cá nước lạnh của HTX nằm ở độ cao 1.200m, có hoàn cảnh tự nhiên và môi trường thích hợp cho sự phát triển của cá tầm và cá hồi. Từ năm 2010 đến nay, HTX đã chi khoảng 40 tỷ đồng xây dựng 120 bể giống.

Đến năm 2022, sản lượng dự kiến đạt từ 200 tấn trở lên, phần lớn sản phẩm được tiêu thụ tại Hà Nội và khu vực phía Bắc.

Tuy nhiên, các bể nuôi và nuôi cá tầm và cá hồi thương mại vẫn xen kẽ trong thời điểm này. Ông Cảnh đề nghị tỉnh Lai Châu cấp đất để đầu tư chung nhằm thành lập cơ sở chăn nuôi tập trung, quy mô hiện đại cho khu vực.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, một cơ sở nuôi cá nước lạnh ở Sapa bố trí cả một hệ thống để chuẩn bị và niêm phong túi nilon chân không sau đó được vận chuyển ra Hà Nội để bán. Do đó, HTX Ngũ Chi Sơn cũng phải tích lũy kinh nghiệm này để phát triển chuỗi giá trị cho sản phẩm cá tầm, cá hồi, từ đó tăng lợi nhuận.

Định hướng đưa Mường Tè trở thành “trung tâm gingseng” của miền Bắc

Chính quyền tỉnh Lai Châu cho biết, mặc dù tình trạng nghèo khó của tỉnh, tỉnh đã ban hành 5 kế hoạch và 5 nghị quyết để thúc đẩy “tam nông” (kết nối nông nghiệp, nông dân và nông thôn).

Lai Chải cũng là đơn vị dẫn đầu về chi ngân sách cho phát triển nông nghiệp, đã chi khoảng 1.000 tỷ đồng trong 5 năm qua.

dau-tu-vao-nong-nghiep-la-dieu-lai-chau-khuyen-khich-cac-doanh-nghiep

Ngoài ra, Chủ tịch UBND tỉnh Lai Châu đã trình bày 4 ý kiến đóng góp cho Bộ NN&PTNT tại buổi làm việc. Để bắt đầu, bộ đề nghị Bộ hỗ trợ tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư nông nghiệp vào tháng 11 hoặc cuối năm nay, với sự tham gia của các doanh nghiệp nông nghiệp lớn và có uy tín.

Theo người đứng đầu Ủy ban Nhân dân tỉnh Lai Châu, độ che phủ rừng của Lai Châu đã tăng lên 51%, đây là một lợi ích đáng kể cho sự phát triển của nghề nuôi ong và chăn nuôi. Ngoài ra, Lai Châu còn có nhiều vùng sinh học lý tưởng cho nuôi cá nước lạnh. Tuy nhiên, việc xác định chọn giống nào và làm thế nào để nhân giống công nghệ để truyền bá các mô hình vẫn là một thách thức đáng kể.

Thứ hai, Lai Châu có cửa khẩu quốc tế và thị trường nhiều chục triệu dân ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, nhưng chỉ số giá tiêu dùng tương đương với Hà Nội. Ví dụ, sản lượng thịt của tỉnh chỉ có thể đáp ứng khoảng 80% nhu cầu; 20% còn lại phải nhập khẩu từ khu vực phía Bắc.

gia-urea-ban-le-lien-tuc-tang-nong-vuot-moc-14-000-dong-kg

Giá urea bán lẻ liên tục tăng nóng vượt mốc 14.000 đồng/kg

Giá urea bán lẻ liên tục tăng nóng vượt mốc 14.000 đồng/kg. Trong thời điểm giá của tất cả các loại phân bón đều tăng thì ure cũng tăng không kém cạnh.

gia-urea-ban-le-lien-tuc-tang-nong-vuot-moc-14-000-dong-kg

Liên tục tăng mạnh trong những ngày qua, giá urea bán tới tay nông dân ở Đồng bằng sông Cửu Long đã vượt mốc nói trên sau 13 năm.

Theo thông tin từ một số thương nhân ngành phân bón, ngày 6/10, giá phân urea mà một số nhà máy cung cấp cho các đại lý cấp 1 đã ở mức trên dưới 13.000 đồng/kg.

Tại Đồng bằng sông Cửu Long, giá phân urea bán tới tay nông dân đã ở mức từ 590.000-720.000 đồng/bao, tương ứng với 13.800-14.400 đồng/kg.

Đây là mức giá rất cao và đã rất lâu rồi, giá phân urea bán tới tay người nông dân mới lại vượt mốc 14.000 đồng/kg. Một thương nhân ngành phân bón cho biết lần gần nhất giá phân urea hơn 14.000 đồng/kg khi tới tay nông dân là vào năm 2008.

Ngoài urea, giá một số loại phân bón chủ lực khác cũng tiếp tục tăng mạnh. Ngày 6/10, giá một loại DAP nội địa cung ứng cho đại lý cấp 1 đã ở mức 15.500 đồng/kg.

Tại ĐBSCL, giá DAP Trung Quốc bán cho nông dân đã vượt mốc 1 triệu đồng/bao khi ở mức 1,18-1,2 triệu đồng/bao (23.600-24.000 đồng/kg). Một loại DAP nội địa ở mức 850.000-870.000 đồng/bao (17.000-17.400 đồng/kg).

Giá DAP bán lẻ như trên vẫn chưa cao bằng năm 2008 (có thời điểm tới 27.000 đồng/kg), nhưng cũng là mức rất cao và chắc chắn sẽ khiến cho sản xuất của nông dân bị đội chi phí khá nhiều.

Cũng trong ngày 6/10, giá kali bán lẻ ở ĐBSCL từ 720.000-750.000 đồng/bao (14.400-15.000 đồng/kg), tăng 1.000-1.200 đồng/kg so với cuối tháng 9.

Cập nhật các tin tức tin tức nhanh chóng và chất lượng tại Phân bón Canada.

du-bao-sau-benh-duoc-so-hoa

Dự báo sâu bệnh được số hóa

Dự báo sâu bệnh được số hóa. Ngày 30/9, Cục Bảo vệ thực vật thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Công ty Cổ phần Giải pháp WeatherPlus (WeatherPlus) đã ký kết thỏa thuận hợp tác về phát triển và ứng dụng công nghệ 4.0 bao gồm thiết bị quan trắc thời tiết IMETOS, bẫy côn trùng trong bảo vệ thực vật. Hai bên cũng nhất trí về hợp tác quản lý và giám sát cây trồng để thích ứng với biến đổi khí hậu hướng tới nông nghiệp bền vững.

du-bao-sau-benh-duoc-so-hoa

Các trạm IMETOS thông minh giám sát sâu bệnh thực vật

Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật (Bộ NN&CN) Nguyễn Quý Dương cho biết, dự báo đã đóng vai trò quan trọng trong công tác bảo vệ thực vật để đảm bảo an toàn cho sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, hoạt động này cho đến nay chủ yếu dựa trên kinh nghiệm của nhân viên chuyên môn mà không có trợ lý thông minh.

Trước đó, hai bên đã hợp tác thành công trong việc thử nghiệm các trạm thời tiết thông minh để đưa ra cảnh báo sâu bệnh, đặc biệt là bệnh bùng nổ lúa ở các tỉnh phía Bắc. Trong lần hợp tác này, DDP và WeatherPlus tiếp tục phối hợp triển khai thí điểm mô hình công nghệ imetos (trạm IMETOS) để theo dõi, dự báo sâu bệnh trên các cánh đồng lúa ở nhiều tỉnh thành.

Hệ thống trạm IMETOS sẽ đánh giá mối liên hệ giữa sự phát triển của côn trùng, sâu bệnh có hại như bệnh nổ lúa, lá vi khuẩn sáng, planthopper nâu và các yếu tố thời tiết như nhiệt độ, độ ẩm, hướng gió và tốc độ. Trên cơ sở đó, có thể đưa ra thông tin dự báo thời tiết có độ tin cậy cao để giúp nông dân kịp thời có biện pháp phòng, chống sâu bệnh hiệu quả.

Theo thỏa thuận hợp tác trong giai đoạn 5 năm từ 2021 đến 2025, hai bên đã thống nhất triển khai 6 nội dung gồm: lắp đặt hệ thống trạm IMETOS; phối hợp thực hiện các dự án phát triển phần mềm truyền dữ liệu dự báo, cảnh báo thời tiết, xác định sâu bệnh, dự báo sâu bệnh dựa trên trạm IMETOS và thiết bị giám sát, tận dụng thông tin để quản lý cây trồng.

Ngoài ra, hai bên sẽ hợp tác thực hiện công tác dự báo, hướng dẫn cán bộ, nông dân địa phương phòng, chống sâu bệnh qua mạng viễn thông tại Việt Nam; đánh giá hiệu quả của việc áp dụng các hệ thống thời tiết, sâu bệnh, giám sát và dự báo dịch bệnh; dự báo và ước tính tác động và tác hại của sâu bệnh đối với một số cây trồng chủ lực.

Đề xuất cơ chế áp dụng thống nhất hệ thống giám sát, cảnh báo sớm tại các vùng sinh thái nông nghiệp của Việt Nam. Trên cơ sở đó, một kế hoạch cho một ứng dụng rộng rãi sẽ được phát triển trong tương lai gần.

Hai bên sẽ tiến hành các lớp tập huấn về sản xuất và bảo vệ cây trồng, chia sẻ thông tin về quan trắc và dự báo khí tượng IMETOS cũng như tình hình dịch bệnh

Với các nội dung đã thống nhất, chương trình hợp tác sẽ được thực hiện theo 4 giai đoạn.

Trong giai đoạn 1 từ năm 2021 đến năm 2022, hai bên sẽ hợp tác với nhau để thiết lập mạng lưới các trạm khí tượng nông nghiệp và chia sẻ dữ liệu; xây dựng mô hình thí điểm sử dụng công nghệ Imetos để theo dõi, dự báo và cảnh báo sớm các tác động, rủi ro.

Phối hợp chặt chẽ và chia sẻ thông tin

du-bao-sau-benh-duoc-so-hoa

Chủ tịch WeatherPlus Tô Đức Hải cho biết, chuyển đổi số trong nông nghiệp hiện đang thu hút sự quan tâm lớn của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng như các cơ quan chuyên môn.

Trong đó, chuyển đổi nông nghiệp số dựa trên dữ liệu và hệ thống quan trắc thời tiết thông minh được khuyến khích phát triển. WeatherPlus đã cài đặt gần 80.000 trạm IMETOS trên toàn thế giới, đây là bằng chứng về hiệu quả của hệ thống trong cuộc sống thực.

Ông Hải cũng bày tỏ hy vọng trong lần hợp tác này hai bên sẽ bắt đầu một chương mới về ứng dụng công nghệ thông minh trong nông nghiệp trên tinh thần cởi mở, trách nhiệm và phối hợp chặt chẽ.

Thông qua sự hợp tác, cán bộ chuyên trách trong lĩnh vực nông nghiệp có thể nâng cao hiệu quả trong quản lý dịch hại, hạn chế ảnh hưởng đến nông dân.

Thỏa thuận hợp tác cũng quy định rõ trách nhiệm của mỗi bên để các nội dung đã ký kết sẽ được ban hành theo đúng tiến độ và có hiệu quả cao nhất.

DDP có trách nhiệm cử nhân viên theo dõi tình hình dịch bệnh, đưa ra cảnh báo và dự báo về sâu bệnh để WeatherPlus có thể cung cấp thông tin cho khách hàng hoặc nông dân; hợp tác với WeatherPlus để nghiên cứu, thiết kế phần mềm cảnh báo và dự báo thông qua các trạm IMETOS và các nền tảng giám sát trực tuyến.

blank

Vụ lúa đông xuân 2021-2022: Diện tích gieo trồng tăng ở khu vực Đông Nam

Vụ lúa đông xuân 2021-2022: Do tình trạng xâm nhập mặn ít nghiêm trọng hơn, các tỉnh ở khu vực Đông Nam Bộ đã lên kế hoạch tăng diện tích trồng lúa thêm 2.000 ha so với cùng kỳ năm ngoái. Theo Đài Khí tượng Thủy văn khu vực Nam Bộ, điều kiện trung tính có khả năng ủng hộ La Nina. Có 70% cơ hội các điều kiện trung lập sẽ kéo dài đến cuối năm 2021.

vu-lua-dong-xuan-2021-2022-dien-tich-gieo-trong-tang-o-khu-vuc-dong-nam

Đây là điều kiện thuận lợi để toàn vùng Đông Nam Bộ trồng 1,6 triệu ha lúa trong niên vụ lúa 2021-2022, tăng 2.000 so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng lúa của toàn vùng dự kiến đạt 11,438 triệu tấn trong đó các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long chiếm 10,962 triệu tấn.

Sự gia tăng được thúc đẩy bởi một diện tích trồng lúa bổ sung là 1.500 ha (tương đương gần 2%). Theo Cục Sản xuất cây trồng, sản lượng lúa dự kiến sẽ cao hơn 15.000 tấn so với năm ngoái.

Tại ĐBSCL– một giỏ lúa lớn, tổng diện tích gieo cấy lúa vụ đông xuân sẽ là 1,52 triệu ha, cao hơn 400 ha so với vụ trước. Tuy nhiên, khả năng xâm nhập mặn cao hơn năm ngoái, sản lượng lúa dự kiến giảm 26.000 tấn. Tỉnh Bến Tre dự kiến sẽ có mức giảm lớn nhất. Tỉnh sẽ không gieo sạ giống lúa trong vụ đông xuân trên diện tích ước tính 11.000 ha. Thay vào đó, nó đã chuyển sang trồng các loại cây trồng vùng cao phù hợp hơn với đất mặn.

Trong vụ đông xuân này, các khu vực ven biển đồng bằng sông Cửu Long cách biển 20-30 km được dự báo sẽ bị ảnh hưởng bởi hạn hán và xâm nhập mặn. Bên cạnh đó, các khu vực phù sa nước ngọt cách biển 30-70km cũng có thể bị ảnh hưởng trong trường hợp xâm nhập mặn đến sớm hơn và nghiêm trọng hơn dự báo. Tuy nhiên đồng bằng Suối Suối trong đất ngập nước (Đồng Tháp Thào) và một phần tứ giác Long Xuyên sẽ gần như không bị ảnh hưởng.

Về thời gian gieo. Cục Trồng trọt khuyến cáo các vùng bị ảnh hưởng bởi xâm nhập mặn ở ĐBSCL nên gieo sạ lúa giống sớm hơn từ ngày 10-30/10. Diện tích còn lại sẽ gieo lúa thành 2 giai đoạn: từ ngày 1-30/11 và từ ngày 1-30/12. Khoảng 700.000 ha sẽ được trồng trong giai đoạn 1 và 400.000 ha khác sẽ được trồng trong giai đoạn 2.

Đối với khu vực Đông Nam Bộ,20.000 ha sẽ được trồng từ tháng 10 đến đầu tháng 11. Vụ lúa đông xuân chính sẽ diễn ra từ đầu tháng 11 đến tháng 12 trên diện tích 35.000 ha. Trong khi vụ lúa cuối vụ sẽ được gieo trồng từ cuối tháng 12 đến đầu tháng 1/2022 trên diện tích 25.000 ha.

Đối với vụ lúa đông xuân diễn ra vào tháng 10, cây lúa sẽ gặp bất lợi ở giai đoạn ra hoa và năng suất thấp hơn. Rất khó để đảm bảo lịch thu hoạch ở các khu vực bị ảnh hưởng bởi hạn hán và xâm nhập mặn. Ngược lại, vụ lúa muộn sẽ được thu hoạch vào tháng 1, tháng 2 hoặc tháng 3 năm sau khi trời khô và nắng, dẫn đến chất lượng lúa ổn định. Tuy nhiên, loại cây trồng này chỉ phù hợp với các khu vực có nguồn cung cấp nước sẵn có. Cục Trồng trọt lưu ý, vụ lúa đông xuân cuối vụ phải diễn ra trước ngày 10/1/2022.

Về cơ cấu giống lúa. Các khu vực cách biển 20-30km sẽ được ưu tiên trồng các giống lúa chịu mặn và thời gian ngắn (90 ngày). Đối với các khu vực còn lại, các giống lúa năng suất cao và chất lượng cao sẽ được ưu tiên. Cụ thể, các giống lúa chủ lực có khả năng thích ứng và ổn định rộng hơn như OM18, OM5451, OM4900, OM6976, Jasmine 85, Đại Thơm 8, Hương Châu 6, OM7347, Nang Hòa 9 chiếm khoảng 60%.

Các giống lúa đặc sản và gạo nếp như VD20, ST24, ST25, RVT, IR4625 và gạo nếp Be chiếm 30%. Các giống lúa cụ thể được sử dụng để chế biến chủ yếu, hoặc phù hợp với một số tập quán canh tác nhất định chỉ chiếm 10%.

Về nguyên liệu đầu vào. Nhu cầu tương đối không thay đổi so với năm ngoái và có thể tăng tại địa phương trong một số thời điểm nhất định. Đặc biệt, Cục Trồng trọt đề nghị các địa phương cần quan tâm gieo cấy trong tháng 10. Sở ước tính vụ mùa này cần 30.000-35.000 tấn hạt giống, 30.000-36.000 tấn urê, 27.000-32.000 tấn DAP và 10.000-12.500 tấn kali

Nhiều tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đã áp dụng các biện pháp giãn cách xã hội từ tháng 7 đã ảnh hưởng đến việc trồng và thu hoạch lúa. Do đó, Cục Trồng trọt yêu cầu các địa phương tính toán tổng diện tích gieo trồng, cơ cấu giống lúa và dự báo thời gian thu hoạch. Sở sẽ chịu trách nhiệm thu thập dữ liệu và thông báo cho Hiệp hội Thực phẩm và các doanh nghiệp về thông tin 30 ngày trước khi thu hoạch. Mục đích là để lập kế hoạch tiêu thụ trong dịp Tết Nguyên đán 2022, cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

gia-phan-bon-da-tang-nong-tro-lai-sau-nhieu-ngay

Giá phân bón đã tăng nóng trở lại sau nhiều ngày

Giá phân bón đã tăng nóng trở lại sau nhiều ngày. Sau khi giảm nhiệt hồi cuối tháng 8, đầu tháng 9, giá phân bón ở Nam bộ đang quay đầu tăng lên. Thông tin từ Agromonitor cho thấy, sau mấy tuần liên tiếp giảm, từ nửa cuối tháng 9, giá urea đã tăng trở lại.

gia-phan-bon-da-tang-nong-tro-lai-sau-nhieu-ngay

Cũng theo Agromonitor, trong mấy tuần qua, giá DAP tăng mạnh do nguồn cung nội địa và nhập khẩu đều hạn chế. Cụ thể, trong 3 tuần liên tục từ 25/8-14/9, nhập khẩu DAP về Việt Nam chỉ đạt trung bình 511 tấn/tuần. Trong tháng 9, giá kali ở Việt Nam tiếp tục tăng mạnh do giá thế giới tăng cao.

Một nguồn tin khác cho biết, ngày 30/9, ở Đông Nam bộ và Tây Nguyên, giá urea trên thị trường đã ở mức từ 630.000 – 650.000 đồng/bao (12.600 – 13.000 đồng/kg), kali miểng từ 590.000 – 640.000 đồng/bao (11.800 – 12.800 đồng/kg). So với cách đây 1 tuần, giá ure ở Đông Nam bộ và Tây Nguyên tăng 200 đồng/kg, kali tăng 100 đồng/kg.

Cũng trong ngày 30/9, ở ĐBSCL, giá phân urea trên thị trường từ 630.000 – 670.000 đồng/bao (12.600-13.400 đồng/kg); DAP Trung Quốc 930.000 – 950.000 đồng/bao (18.600 – 19.000 đồng/kg); DAP nội địa 800.000 – 820.000 đồng/bao (16.000 – 16.400 đồng/kg); kali miểng từ 670.000 – 690.000 đồng/bao (13.400 – 13.800 đồng/kg).

So với cách đây 1 tuần, giá urea ở ĐBSCL đã tăng thêm 800 – 1.000 đồng/kg, kali tăng 600 – 1.000 đồng/kg, đều là những mức tăng mạnh. Một doanh nhân trong ngành phân bón cho hay, giá ure trên thị trường ĐBSCL vào ngày cuối cùng của tháng 9 đã cao hơn cả giá ure trong thời điểm sốt giá hồi giữa tháng 8.

Giá phân bón tăng cao trở lại, trước hết là do có sự tác động từ thị trường thế giới. Giá ure, kali, DAP trên thế giới đang tiếp tục lập đỉnh mới.

viet-nam-cung-cap-cao-su-thien-nhien-lon-thu-tu-cua-my

Việt Nam cung cấp cao su thiên nhiên lớn thứ tư của Mỹ

Việt Nam cung cấp cao su thiên nhiên lớn thứ tư của Mỹ. Nhập khẩu cao su của Việt Nam đã tăng mạnh tại thị trường Mỹ đặc biệt là về cao su thiên nhiên, cưỡi trên đà này để tăng thị phần.

viet-nam-cung-cap-cao-su-thien-nhien-lon-thu-tu-cua-my

Theo Ủy ban Thương mại Quốc tế (USITC), trong 7 tháng đầu năm 2021, Mỹ đã nhập khẩu 1,09 triệu tấn cao su, trị giá 2,19 tỷ USD, tăng 12% về lượng và tăng 27,6% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Indonesia, Thái Lan, Canada, Hàn Quốc và Bờ Biển Ngà là năm thị trường cung cấp cao su lớn nhất cho đất nước này.

Việt Nam đứng thứ 11 về nguồn cung cao su vào Mỹ trong 7 tháng đầu năm nay, đạt 23,51 nghìn tấn, trị giá 41,87 triệu USD, tăng 61% về lượng và tăng 92,3% về trị giá so với cùng kỳ năm trước.

Nhờ sự gia tăng mạnh mẽ cả về lượng và giá trị như đã đề cập, thị phần cao su của Việt Nam trong tổng nhập khẩu cao su của Mỹ chiếm 2,2%, tăng nhẹ so với mức 1,5% trong 7 tháng đầu năm 2020.

Cũng trong giai đoạn này Việt Nam đáng chú ý đứng thứ 4 trong danh mục cao su thiên nhiên với 23,46 nghìn tấn nhập khẩu vào thị trường Mỹ, trị giá 41,65 triệu USD, tăng 60,8% về lượng và tăng 92,9% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Thị phần cao su thiên nhiên của Việt Nam trong tổng nhập khẩu của Mỹ chiếm 4,3%, đây là mức tăng tích cực khi xem xét mức 2,9% trong bảy tháng đầu năm 2020. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong thị phần (0,01%) trong tổng lượng nhập khẩu của Mỹ trong danh mục cao su tổng hợp.

Thị trường Mỹ là một thị trường tiềm năng của Việt Nam.

quan-li-dich-hai-tong-hop-duoc-nguoi-nong-dan-quan-tam

Quản lí dịch hại tổng hợp được người nông dân quan tâm

Quản lí dịch hại tổng hợp được người nông dân quan tâm. Chi cục Sản xuất và Bảo vệ thực vật tỉnh Tuyên Quang vừa tổ chức hội nghị đánh giá mô hình IPM áp dụng cho giống lúa VNR20 trồng trong 5 ha tại xã Minh Hương, huyện Hàm Yên.

quan-li-dich-hai-tong-hop-duoc-nguoi-nong-dan-quan-tam

Ông Trần Hải Tuyền, Trưởng phòng cho biết, trên địa bàn xã có 30 hộ tham gia mô hình. Họ được cung cấp hạt giống lúa và được đào tạo để áp dụng kỹ thuật canh tác có liên quan.

Giống lúa VNR20 có những ưu điểm vượt trội như thời gian ngắn, thân cứng, chiều cao cây vừa phải, cày mạnh, chống đổ tốt, kháng sâu bệnh tốt; số lượng hạt trên bông cao, gieo hai vụ trong một năm và chất lượng tốt.

Việc áp dụng IPM cho giống lúa VNR20 đã giúp nông dân sớm bảo vệ lúa khỏi bệnh tật, sử dụng thuốc bảo vệ thực vật đúng cách và mở đường cho họ sản xuất lúa hữu cơ tại xã Minh Hương.

30 hộ nông dân khác ở thị trấn Lăng Can, huyện Lâm Bình cũng áp dụng mô hình IPM trên tổng diện vi 3 ha. Tất cả các hộ đều sử dụng cùng một giống lúa VNR20, cùng một kỹ thuật canh tác và các biện pháp phòng trừ sâu bệnh.

Theo nông dân, lúa của họ phát triển tốt với ứng dụng IPM. Đặc biệt, họ tiết kiệm chi phí sản xuất vì chỉ sử dụng các sản phẩm bảo vệ thực vật một lần, từ đó sản xuất gạo an toàn hơn, đảm bảo sức khỏe cho cộng đồng và môi trường.

Năng suất lúa trong mô hình ước đạt 63,7 quintal/ha, cao hơn 8 năm/ha so với cánh đồng đối chứng.

Ông Tạ Văn Tĩnh, Trưởng phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn huyện Yên Sơn cho biết, việc áp dụng IPM đã được chứng minh hiệu quả vì nó đã giúp nông dân phát triển canh tác bền vững, sử dụng ít sản phẩm hóa chất, tiết kiệm nước và sử dụng nhiều phân bón hữu cơ và sinh phẩm để phục hồi đất.

Ông Nguyễn Đức Cẩn, một nông dân ở xã Tân Long, huyện Yên Sơn cho biết, ông đã áp dụng IPM trên hai sao (tương đương 720 m2.m) ngô của mình.

“Tôi đã tham dự các lớp đào tạo về IPM”, ông nói, thêm rằng bây giờ ông hiểu thêm về IPM giúp đảm bảo sức khỏe con người và năng suất cây trồng.

Việc áp dụng IPM tại tỉnh Tuyên Quang đã tạo nền tảng vững chắc cho việc áp dụng VietGAP và canh tác hữu cơ tại địa phương.

phan-bon-superphosphate-chat-on-dinh-giua-con-bao-gia

Phân bón superphosphate – ‘chất ổn định’ giữa ‘cơn bão giá’

Phân bón superphosphate giúp cây của người tiêu dùng vẫn có thể có đủ chất dinh dưỡng phốt pho với giá cả hợp lý nhất.

Phân bón superphosphate

Từ đầu năm đến nay, giá phân bón trong nước và thế giới liên tục tăng, vượt xa dự đoán của hầu hết các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phân bón. Đây thực sự là một tin sốc đối với nông dân.

Tại thị trường trong nước, giá urê tăng trên 80%, từ 6.500 – 6.800 đồng/kg lên 11.500 – 12.000 đồng/kg. Các loại phân bón nitơ khác như nitơ sunfat, nitơ amoni và nitơ nitrat cũng tăng với tốc độ tương tự. Phân bón kali, phải nhập khẩu 100% của Việt Nam, cũng có giá tăng hơn 80%.

Giá các loại phân bón chứa phốt phát như DAP, MAP, TSP… Cũng không thể thoát khỏi tình huống tương tự. DAP sản xuất trong nước có giá tăng gần 80% từ 8.500 đồng/kg lên trên 15.000 đồng/kg. giá DAP nhập khẩu tăng gấp đôi, từ 9.000 đồng/kg lên 18.000 đồng/kg.

phan-bon-superphosphate-chat-on-dinh-giua-con-bao-gia

Những lý do đằng sau việc tăng giá “phi mã” của phân bón đã được đưa ra để phân tích kỹ lưỡng. Trên phạm vi thế giới, nhu cầu lương thực tăng cao do đại dịch Covid-19 đã khiến giá nông sản liên tục tăng, buộc sản xuất nông nghiệp phải phát triển hơn nữa dẫn đến nhu cầu phân bón tăng. Hiện tượng này phù hợp với sự gia tăng đột ngột chi phí cho sản xuất, vận chuyển và hậu cần cũng như chuỗi cung ứng bị gián đoạn của tất cả các nguyên liệu thô và hàng hóa. Đây là nguyên nhân chính khiến giá phân bón tăng mạnh kể từ đầu năm.

Tại thị trường trong nước, việc tăng giá phân bón không hoàn toàn do mối quan hệ cung cầu. Giá nông sản các loại có xu hướng đi xuống vì khó tiêu thụ vì nhiều vùng hiện đang bị cô lập, giãn cách. Đại dịch kéo dài đã làm giảm thu nhập của người dân, dẫn đến giảm khả năng mua hàng trong nước.

Theo thống kê, cả nước có 841 nhà máy sản xuất phân bón, với năng lực sản xuất gần 30 triệu tấn/năm, trong khi nhu cầu sử dụng những năm gần đây chỉ đạt hơn 10 triệu tấn. Nói rằng nguồn cung không thể đáp ứng nhu cầu trong tình huống này có thể không quá thuyết phục.

Tình hình hiện tại có thể được giải thích bởi giá nguyên liệu cao được sử dụng để sản xuất phân bón. Giá lưu huỳnh đã tăng 170%, amoniac tăng 200%, axit sulfuric tăng 132%. Hơn nữa, chi phí vận tải và logistics đã bị đẩy lên quá cao và chưa có một bộ chính sách hợp lý về sản xuất phân bón và thuế nhập khẩu.

Tuy nhiên, trong bối cảnh giá phân bón hỗn loạn, vẫn có những điểm sáng đáng chú ý. Giá phân siêu lân vẫn được duy trì ở mức tương đối ổn định. Sản phẩm phân bón Superphosphate chủ yếu được sản xuất trong nước và được sử dụng rộng rãi tại các địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền Bắc và miền Trung. Mặc dù giá các loại phân bón chứa phốt phát khác (DAP, MAP, TSP,…) đã tăng mạnh từ đầu năm đến nay, nhưng giá phân siêu lân vẫn tương đối ổn định. Có thể nói, giá phân bón superphosphate đang rẻ nhất trên thị trường hiện nay. Người tiêu dùng khi mua superphosphate có thể đảm bảo đủ giá trị dinh dưỡng của phốt pho cho cây với giá cả hợp lý nhất.

Tuy nhiên, với áp lực ngày càng tăng do giá nguyên liệu chính (quặng apatit và axit sulfuric) cao, đặc biệt là nguồn cung quặng rất khan hiếm, không thể đáp ứng nhu cầu của các nhà sản xuất phân lân, rất khó, gần như đến mức không thể, để duy trì giá superphosphate hiện tại.

phan-bon-superphosphate-chat-on-dinh-giua-con-bao-gia

Trên thực tế, do giá quặng apatit và axit sulfuric tăng, giá superphosphate tăng tương ứng, nhưng chỉ khoảng 10%.

Xét giá trị hàm lượng dinh dưỡng phốt pho tương quan với các loại phân bón khác, giá phân siêu phố nên tăng 80 – 90%, tương đương mức tăng 5.300 – 5.500 đồng/kg. Chưa kể còn có một lượng lớn lưu huỳnh (11%) và các hợp chất khác trong phân bón superphosphate rất cần thiết và hữu ích cho thực vật.

Hơn nữa, chi phí vận chuyển và logistics sẽ tiếp tục tăng vì các chi phí liên quan đến phòng, chống dịch bệnh chắc chắn sẽ tác động kép đến giá phân siêu lân trên thị trường. Đây là điều dễ hiểu khi xem xét tình hình thị trường phân bón hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam.

Mùa thu đông 2021 đã cận kề. Trong bối cảnh hiện nay, nông dân và nhà sản xuất phân bón cần sáng suốt khi quyết định sản phẩm phân bón để đảm bảo có lợi nhất, vừa đảm bảo hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, vừa phát huy tối đa lợi ích tiềm năng.