phan-bon-tang-gia-mot-cach-ky-luc-co-phieu-tang-gia-moi

Phân bón tăng giá một cách kỷ lục, cổ phiếu tăng giá mới

Phân bón tăng giá một cách kỷ lục, cổ phiếu tăng giá mới.

phan-bon-tang-gia-mot-cach-ky-luc-co-phieu-tang-gia-moi

Sóng tăng giá còn kéo dài sang năm 2022

Giá phân bón đang ở mức cao nhất mọi thời đại và chưa có dấu hiệu dừng lại. Đóng cửa cuối tuần qua (10/12), chỉ số giá phân bón ở Bắc Mỹ trên Green Markets đứng ở mức 1.081 USD/tấn, tăng 160% so với đầu năm. Theo dự báo của WB, xu hướng tăng giá của một số loại phân bón sẽ tiếp tục diễn ra trong năm 2022.

Tại thị trường Việt Nam, giá phân bón sản xuất trong nước và nhập khẩu các loại (ure, DAP, kali…) cũng tăng 80-150% so với đầu năm.

Nguyên nhân khiến giá phân bón tăng kỷ lục chủ yếu đến từ giá nguyên liệu đầu vào. Cụ thể, giá khí tự nhiên tăng gấp đôi, giá than tăng gấp 3-4 lần khiến nhiều nhà máy phân bón ngừng hoạt động hoặc cắt giảm sản lượng, ảnh hưởng đến nguồn cung cho thế giới.

Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp có thể khiến nhiều nhà máy phân bón phải ngừng sản xuất ngoài dự kiến trong khi các quốc gia tăng cường sản xuất, tích trữ lương thực. Ngoài ra, các nhà xuất khẩu phân bón hàng đầu như Trung Quốc, Nga, Ai Cập ngừng hoặc hạn chế xuất khẩu khiến cho thị trường càng thêm căng thẳng.

Trong nước, theo nhận định của nhà nhập khẩu phân bón Vinacam, giá phân bón thời gian tới sẽ tiếp tục neo cao theo giá thế giới. Cụ thể, giá Kali bột sẽ tiếp tục duy trì ổn định ở mức 13.000.000-13.500.000 đồng/tấn và xu hướng này có thể sẽ kéo dài đến tháng 2/2022. Riêng Kali miểng sẽ tiếp tục đứng ở mức cao 17.000.000-17.500.000 đồng/tấn và sẽ hướng tới 18.000.000 đồng/tấn vào cuối quý I/2022 do nguồn cung khan hiếm.

Đối với DAP, cùng với quyết định cấm xuất khẩu của Trung quốc, Nga đã có động thái siết lại hạn ngạch đối với sản phẩm phân bón nitơ và phân tổng hợp chứa nitơ, do vậy DAP sẽ vẫn duy trì đà tăng trưởng và dự kiến DAP nâu sẽ sớm vượt mức 23.000.000 đồng/tấn, DAP xanh Hồng Hà và DAP Hàn Quốc là 24.000.000-25.000.000 đồng/tấn. Phân DAP sản xuất trong nước tiếp tục khan hiếm do tình hình quặng Apatit không được cải thiện.

Các chuyên gia phân tích Công ty chứng khoán BSC dự báo, giá phân bón thế giới sẽ duy trì ở mức cao trong cuối năm 2021 và đầu 2022 bởi nguyên liệu khí đốt, dầu thô và than biến động khó lường, cước vận tải vẫn chưa hạ nhiệt.

Doanh nghiệp lãi lớn, cổ phiếu ngành phân bón hưởng lợi

phan-bon-tang-gia-mot-cach-ky-luc-co-phieu-tang-gia-moi

Mặc dù chịu tác động bởi cước vận tải và chi phí nguyên liệu tăng cao, song giá thành phẩm cũng tăng mạnh đã giúp các công ty phân bón hưởng lợi. Dự báo, các doanh nghiệp ngành phân bón sẽ có kết quả kinh doanh vượt dự đoán trong quý IV/2021 và tiếp tục tăng trưởng ấn tượng năm 2022.

Ông Đào Hữu Huyền, Chủ tịch HĐQT Hóa chất Đức Giang (mã chứng khoán: DGC) cho hay, kế hoạch lợi nhuận của Tập đoàn quý IV/2021 là 600 tỷ đồng, nhưng chỉ riêng trong tháng 10 và 11 đã đạt khoảng 1.000 tỷ đồng. Năm nay, ước lợi nhuận sau thuế của Tập đoàn sẽ đạt kỷ lục: 2.400 tỷ đồng.

Trong khi đó, hàng loạt công ty thành viên của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam (Vinachem) cũng lãi lớn. Tiêu biểu là Công ty CP DAP – Vinachem (Mã chứng khoán: DDV), lãi 11 tháng đầu năm đạt 277,3% so với kế hoạch năm. Công ty CP Supe Phốt phát & Hóa chất Lâm Thao (mã chứng khoán: LAS) lãi đạt gần 228% so với kế hoạch năm. Công ty CP Phân bón Miền Nam (mã chứng khoán: SFG) đạt 768,8%, Hóa chất Việt Trì (mã chứng khoán: HTV) đạt 154,5%, Phân bón Bình Điền (mã chứng khoán: BFC) đạt 153,6% so với kế hoạch…

“Bão giá” phân bón kéo dài suốt cả năm 2021 và dự kiến kéo dài sang năm 2022 khiến lợi nhuận của các doanh nghiệp trong ngành vô cùng sáng sủa. Từ đầu năm đến nay, hàng loạt cổ phiếu phân bón bứt phá từ đầu năm, điển hình như DPM, DCM, DGC, DDV…

Đặc biệt có thể thấy cổ phiếu DDV tăng 216% từ đầu năm đến nay, từ giá 8.800 đồng/cổ phiếu đã tăng lên 27.800 đồng/cổ phiếu chốt phiên giao dịch cuối tuần qua. Một loạt cổ phiếu phân bón khác cũng tăng bằng lần so với đầu năm: DPM tăng 180%, DCM tăng 178%, LAS tăng hơn 200%…

Ngoài triển vọng lợi nhuận doanh nghiệp tiếp tục khả quan, một số cổ phiếu còn có tiềm năng tăng giá mạnh nhờ “game” thoái vốn nhà nước. Đơn cử, cổ phiếu DDV thời gian gần đây được nhiều nhà đầu tư quan tâm bởi thông tin Tập đoàn Hóa chất Vinachem có thể thoái sạch vốn hoặc thoái về dưới 51% (hiện Vinachem nắm 64% vốn tại DDV). Từ đầu năm đến nay, hoạt động kinh doanh của DDV khởi sắc mạnh mẽ, lợi nhuận sau thuế đạt 159 tỷ đồng, vượt 134% kế hoạch lợi nhuận trước thuế của cả năm. Tính đến hết tháng 11/2021, công ty đã vượt 277% kế hoạch lợi nhuận cả năm.

Bất chấp ảnh hưởng của dịch bệnh, các chuyên gia phân tích Agriseco Research đánh giá ngành phân bón vẫn là một trong số ít ngành được hưởng lợi và kỳ vọng có kết quả kinh doanh tích cực trong năm 2021.

Chính vì vậy, dù nhiều cổ phiếu phân bón đã tăng giá mạnh từ đầu năm, định giá cổ phiếu không còn hấp dẫn. Tuy nhiên, do thuận lợi của thị trường cũng như kết quả kinh doanh năm 2022 chưa phản ánh hết vào giá cổ phiếu nên cổ phiếu phân bón vẫn còn hấp dẫn. Vì vậy, giới chuyên gia cho rằng, nhà đầu tư nên tận dụng các nhịp giảm điểm của thị trường để tích lũy thêm cổ phiếu phân bón, kỳ vọng tiếp tục tăng giá trong thời gian tới.

Sử dụng phân bón tự nhiên nào

Tại sao nên chọn phân bón cho vườn cây

Thay vì chuyển sang sử dụng phân bón hóa học tổng hợp để nuôi cây, bạn hãy xem xét dựa vào phân bón tự nhiên để nuôi dưỡng cả cây và đất của bạn. Phân bón có nguồn gốc từ thiên nhiên không chỉ cung cấp dinh dưỡng khoáng cho cây phát triển mà còn nuôi sống các sinh vật trong đất. Các sinh vật này (hầu hết là nấm và vi khuẩn cực nhỏ) xử lý các loại phân bón này, phá vỡ chúng thành các chất dinh dưỡng mà cây trồng sử dụng để phát triển. Trong bài viết này, Phân bón Canada sẽ giới thiệu cho bạn một số lựa chọn phân bón tự nhiên và thảo luận xem loại nào là lựa chọn tốt cho khu vườn.

Một lựa chọn tốt đó là phân bón tự nhiên

Nhiều vi khuẩn trong đất sống trong mối quan hệ đôi bên cùng có lợi với rễ cây. Chúng cung cấp cho cây một số chất dinh dưỡng khoáng nhất định để đổi lấy một lượng nhỏ cacbohydrat. Sức khỏe và năng suất của đất chắc chắn có liên quan đến hoạt động sinh học được tìm thấy trong đó. Theo ý kiến ​​của người làm vườn này, đã đến lúc dựa vào các loại phân bón hỗ trợ quá trình tuyệt vời này hơn là gây hại cho nó. Mặc dù chúng cung cấp dinh dưỡng khoáng cho cây trồng. Nhưng các loại phân bón tổng hợp phổ biến dựa trên muối có thể gây hại cho các sinh vật trong đất, theo thời gian, có thể dẫn đến nhiều vấn đề.

Một lựa chọn tốt đó là phân bón

Hầu hết các loại phân bón tổng hợp giải phóng nitơ của chúng (trong đó chỉ 40-60% thực sự có thể sử dụng được) trong vòng ba đến sáu tuần. Trong khi phân bón từ cá giải phóng nitơ (trong đó 90% có thể sử dụng được) trong thời gian lên đến 15 tuần. Như bạn có thể thấy, mặc dù phân bón tự nhiên có vẻ ít chất dinh dưỡng hơn vì tỷ lệ NPK của chúng thường thấp hơn. Nhưng thực sự nhận được nhiều chất dinh dưỡng hơn trong thời gian dài hơn. Vì các vi sinh vật trong đất mất nhiều thời gian hơn để xử lý phân bón tự nhiên và giải phóng các chất dinh dưỡng chứa chúng vào đất, các chất dinh dưỡng có sẵn ở dạng giải phóng chậm.

Một lợi ích bổ sung khi sử dụng phân bón từ thiên nhiên là nhiều loại trong số chúng cũng chứa các chất dinh dưỡng vi lượng không có trong phân bón tổng hợp chỉ chứa nitơ, phốt pho và kali.

Phân bón tự nhiên là gì?

Đối với nhiều nhà vườn, việc lựa chọn phân bón rất khó hiểu. Làm thế nào để bạn biết sản phẩm nào là tự nhiên và sản phẩm nào là tổng hợp? Rất may, nó có thể đơn giản như đọc nhãn. Phân bón tự nhiên dựa vào các nguồn thực vật, khoáng chất và động vật để cung cấp chất dinh dưỡng cho nó. Các thành phần như bột xương, bột huyết, bột cá, phân chuồng, cỏ xanh, đá photphat, bột cỏ linh lăng, tảo bẹ và phân trộn thường có.

Phân bón tự nhiên chất lượng tốt liệt kê tất cả các thành phần rõ ràng trên nhãn. Danh sách sẽ bao gồm các thành phần mà bạn có thể sẽ nhận ra. Phân bón tự nhiên có sẵn ở dạng lỏng, cũng như dạng hạt, viên nén và bột.

Phân bón tổng hợp không có danh sách thành phần trên nhãn của chúng. Phân tổng hợp có thể ở dạng viên, bột, lỏng, hạt hoặc tinh thể hòa tan trong nước.

Phân bón từ thiên nhiên

Sử dụng như thế nào để hiệu quả

Việc bổ sung thường xuyên phân trộn thành phẩm, phân cũ, lá vụn, và các nguồn chất hữu cơ khác là rất tốt để giữ nhiều mức dinh dưỡng trong phạm vi mục tiêu tối ưu. Tuy nhiên, đôi khi cần tăng cường thêm dinh dưỡng khoáng, đặc biệt nếu xét nghiệm đất cho thấy điều đó. Đó là nơi mà các sản phẩm và hỗn hợp phân bón tự nhiên trở thành một công cụ tuyệt vời cho những người làm vườn.

Sử dụng phân bón như thế  nào

tac-dung-cua-vo-trung-ga-doi-voi-cay-trong-ban-nen-biet

Tác dụng của vỏ trứng gà đối với cây trồng bạn nên biết

Tác dụng của vỏ trứng gà đối với cây trồng bạn nên biết. Đối với mỗi loại cây trồng như rau sạch, hoa hồng, hoa lan, cây kiểng thì vỏ trứng gà sẽ có những công dụng riêng biệt.

Vỏ trứng gà có chất gì?

Cấu tạo vỏ trứng gà sẽ bao gồm 2 thành phần đó là vỏ cứng và màng vỏ. Vỏ cứng là phần ngoài cùng của vỏ trứng, có chức năng bảo vệ các thành phần bên trong của trứng.

Thành phần hóa học của vỏ trứng gà được quyết định bởi vỏ cứng, nó chứa 93.5% Cacbonat Canxi, 4.09% Protein, 1.2% nước cùng nhiều khoáng chất như MgO, P, Si, Na, K và còn có cả Fe, Al.

Ngoài ra, độ dày vỏ trứng chỉ khoảng 0.2mm – 0.4 mm nhưng trên bề mặt của vỏ có rất nhiều các lỗ khí kích thước rất nhỏ, người ta đã đếm được có khoảng 7000 – 7600 lỗ khí, nhờ đó mà vỏ trứng khi trộn vào đất sẽ giúp đất tơi xốp hơn.

Thành phần thứ 2 của vỏ trứng gà là màng vỏ. Màng vỏ có 2 lớp được cấu tạo từ sợi Keratin đan chéo vào nhau, dày khoảng 0.057mm – 0.069mm, với một lớp dính sát vào vỏ cứng, lớp còn lại thì dính sát vào lớp lòng trắng ngoài.

Màng vỏ trứng gà có chất Glycosaminoglycans, như là Dermatan sulfat, Chondroitin sulfate, và bị Sunfat hóa Glycoprotein kể cả Hexosamines, như là Glucosamine. Vì vậy mà khi xử lý vỏ trứng bón cây, nếu bạn không xử lý kỹ thì trong quá trình sử dụng, vỏ trứng có thể sẽ gây ra mùi khó chịu.

tac-dung-cua-vo-trung-ga-doi-voi-cay-trong-ban-nen-biet

 Tác dụng thần kỳ của vỏ trứng gà đối với cây trồng

Thành phần vỏ trứng gà có đến 97% là Canxi, mà đây là nguyên tố đóng vai trò kích thích rễ cây phát triển, giúp hình thành các hợp chất tạo nên màng tế bào làm cho cây trở nên cứng cáp hơn.

Ngoài ra, Canxi còn làm tăng hoạt tính một số men, giúp trung hòa các axit hữu cơ trong cây. Đồng thời, khi cây hấp thụ Canxi sẽ làm hàm lượng đạm Nitrat giảm xuống, giúp cho các vi sinh vật rễ phát triển thuận lợi, giảm độ chua trong đất và tăng quá trình trao đổi chất của tế bào.

Và dĩ nhiên, đối với từng loại cây trồng thì vỏ trứng gà còn có nhiều công dụng khác nữa.

 Vỏ trứng gà có tác dụng gì đối với rau sạch, cây ăn quả

Ngay từ bước đầu tiên của công việc trồng rau sạch, vỏ trứng gà đã thể hiện công dụng của mình. Thay vì phải gieo hạt, ươm cây bằng viên nén xơ dừa, hay các loại vỉ ươm chuyên dụng thì bạn có thể hoàn toàn ươm cây bằng vỏ trứng.

Bạn chỉ cần cho vào vỏ trứng một ít giá thể ươm giống Sfarm, giá thể mụn dừa đã qua xử lý hay giá thể trấu hun nguyên cánh vào, sau đó đặt 1 – 2 hạt giống đã ngâm ủ vào trong, thì sau 5 – 7 ngày, bạn đã có những cây con khỏe mạnh rồi.

Một tiện ích nhỏ mà việc ươm cây bằng vỏ trứng mang lại đó là sau khi cây con đủ tuổi, bạn không cần bỏ phần vỏ trứng mà có thể đào lỗ và trồng trực tiếp cả cây và vỏ trứng. Vỏ trứng sẽ phân huỷ dần trong đất và cung cấp khoáng chất cho cây non hấp thụ.

Khi cây con đã lớn một chút, bạn bắt đầu trồng vào khay chậu thì bạn sẽ phải đắn đo trộn đất. Khi trộn đất trồng rau, một ít vỏ trứng gà được thêm vào sẽ giúp đất tơi xốp hơn, thoát nước tốt hơn.

Với các loại cây họ Đậu như đậu cove, đậu đũa, đậu phộng, đậu tương, đậu ván, đậu Hà Lan… thì vỏ trứng gà lại càng cần thiết. Bởi khi thiếu Canxi, đậu sẽ bị lép, ít hạt hay hạt không no tròn.

Tác dụng của vỏ trứng gà đối với hoa hồng

Đối với cây hoa hồng thì nguồn dinh dưỡng cần đầy đủ và cân bằng đa – trung – vi lượng, chỉ khi được cung cấp đủ và đúng, cây hoa hồng mới sinh trưởng, phát triển khỏe mạnh và cho hoa rực rỡ.

bien-than-thanh-long-thanh-phan-huu-co

Biến thân thanh long thành phân hữu cơ

Biến thân thanh long thành phân hữu cơ là suy nghĩ tìm cách gia tăng giá trị cho trái thanh long của anh Võ Văn Khánh ngụ huyện Bến Lức (tỉnh Long An).

bien-than-thanh-long-thanh-phan-huu-co

Biến thân thanh long thành phân hữu cơ

Trồng thanh long theo tiêu chuẩn GlobalGAP là công việc rất cụ thể. Đảm bảo vệ sinh môi trường là khâu khó nhất của quá trình nuôi. Cần loại bỏ những cành già, bị bệnh và không có quả. Hoạt động này sẽ tạo ra một lượng lớn tàn dư cây trồng có thể tạo ra một môi trường nơi mầm bệnh có thể sinh sôi nếu chúng không được xử lý đúng cách.

Cụ thể, một cây thanh long có thể có 10-12 kg thân không cần thiết hoặc bị nhiễm bệnh. Trung bình có khoảng 1.200-1.300 trụ bằng gỗ hoặc bê tông trong một khu vườn. Kết quả là mỗi năm phải cắt tỉa từ 12-15 tấn thân

Chôn hoặc đốt không phải là cách tốt để xử lý các thân cây đã cắt. Vì vậy, Khánh nghĩ “tại sao mình không biến thân thanh long thành phân bón để vừa trả lại chất dinh dưỡng cho đất, vừa bảo vệ môi trường, vừa tiết kiệm chi phí?”.

Từ trong đầu suy nghĩ đó, một lần nữa Khánh đến Viện Nghiên cứu cây ăn quả miền Nam để đề xuất ý tưởng và tìm câu trả lời. Nhờ sự tư vấn và hướng dẫn từ các chuyên gia của Viện, anh đã nghĩ ra phương pháp ủ phân hữu cơ để tạo ra hàng chục tấn phân hữu cơ mỗi năm.

Theo anh Khánh, cần phải tìm ra chế phẩm sinh học thích hợp để bón thân cây thành phân hữu cơ.

Thông qua Hội Làm vườn Long An, cuối cùng anh Khánh cũng tìm được sản phẩm tối ưu cho việc chuyển đổi gốc thanh long của mình. Những thân cây sau khi cắt xong được chặt thành từng khúc nhỏ rồi đổ vào một cái hố to được lát bằng bạt ni lông để tránh tiếp xúc trực tiếp với đất và nước.

Sau đó, chế phẩm sinh học được trộn với các chất hữu cơ. Một kg chế phẩm sinh học có thể tạo ra 3-4 tấn phân trộn. Sau một tháng, phân trộn có thể sẵn sàng để sử dụng. Phân hữu cơ không chỉ giúp cây phát triển mạnh hơn mà còn giúp nông dân giảm lượng phân bón sử dụng hàng năm từ 30 – 40%

Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Long An, toàn tỉnh có 2.100 ha thanh long ứng dụng công nghệ cao trong canh tác. Các cơ quan có thẩm quyền của địa phương đã thiết kế mô hình điểm trồng thanh long ứng dụng công nghệ cao trên 842 ha đạt tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP.

phan-bon-giup-tang-san-luong-co-thuc-su-hieu-qua

Phân bón giúp tăng sản lượng có thực sự hiệu quả

Phân bón giúp tăng sản lượng có thực sự hiệu quả. Các nhà nghiên cứu Đài Loan đã phát triển thành công một loại phân bón vi sinh mới có khả năng tăng sản lượng cây trồng lên tới 440%.

phan-bon-giup-tang-san-luong-co-thuc-su-hieu-qua

Phân bón giúp tăng sản lượng

Hội đồng Nông nghiệp Đài Loan dẫn lời giám đốc Trạm Khuyến nông và Nghiên cứu Nông nghiệp Cao Hùng Tai Shun-fa chia sẻ mộ cách đầy tiếc nuối rằng: Trong vài năm qua nếu tận dụng được nguồn phế phẩm này để làm phân bón vi sinh đã có thể tạo tạo ra giá trị hàng trăm triệu USD, đồng thời có thêm một lựa chọn mới trong bối cảnh nguồn cung phân bón ngày càng thắt chặt.

Nhà khoa học Chen Tai-yuan cho biết, họ đã tiến hành thu thập các vi sinh vật từ các trang trại hữu cơ trên khắp hai huyện Cao Hùng và Bình Đông để nghiên cứu. Kết quả, từ hơn 30 loại thu thập được, các nhà nghiên cứu đã xác định được một loại vi sinh vật trên cánh đồng lúa ở thị trấn Wandan của huyện Bình Đông cho thấy hứa hẹn trong việc thúc đẩy tăng trưởng năng suất cây trồng.

Ông Chen nói, vi khuẩn Bacillus velezensis KHH13 hoạt động bằng cách phân giải các khoáng chất như phốt pho và kali, làm cho chúng dễ tiếp cận hơn với cây trồng. Ngoài ra, vi sinh vật này cũng có thể tạo ra axit indole-3-acetic, hoặc IAA- được biết đến như một loại hormone tăng trưởng thực vật và các enzyme quan trọng đối với sự phát triển của cây trồng.

“Trong các thử nghiệm thực địa, vi khuẩn Bacillus velezensis KHH13 đã được chứng minh có khả năng làm gia tăng đáng kể trọng lượng tịnh của nhiều loại rau xanh. Ví dụ, trọng lượng của bắp cải trắng đã tăng 80%, trong khi cải dầu và cần tây tăng đến 190%, còn rau diếp xoăn tăng tới 440%”, ông Chen nói.  Ngoài ra KHH13 cũng có thể tạo ra các hợp chất để cạnh tranh với các sinh vật gây bệnh, cải thiện sức khỏe của đất và bảo vệ cây trồng khỏi bị hư hại bởi thời tiết.

Ông Tai Shun-fa cho biết thêm, loại phân bón vi sinh này đã được cấp bằng sáng chế ở Đài Loan và được cấp phép sử dụng không độc quyền.

Hiện thị trường địa phương đã bắt đầu bán loại phân bón này với tên gọi Wandan Microiotics Fertilizer. Nó cũng nằm trong chương trình trợ giá phân bón hữu cơ của Cơ quan Nông nghiệp và Thực phẩm Đài Loan.

quy-trinh-canh-tac-lua-nep-hieu-qua-cua-nguoi-nong-dan

Quy trình canh tác lúa nếp hiệu quả của người nông dân

Quy trình canh tác lúa nếp hiệu quả của người nông dân. Hiện nay lúa nếp được canh tác nhiều nơi ở ĐBSCL với khoảng 198 ngàn ha/vụ (chiếm 13% diện tích gieo sạ vùng ĐBSCL theo số iệu vụ đông xuân 2020 – 2021).

quy-trinh-canh-tac-lua-nep-hieu-qua-cua-nguoi-nong-dan

Trong đó có 3 vùng tập trung nhất là Phú Tân (An Giang) với diện tích khoảng 10.000 ha (chủ yếu giống nếp CK92); Chợ Gạo (Tiền Giang) khoảng 6.000 ha (chủ yếu Nếp Bè Tiền Giang); Thạnh Hóa (Thủ Thừa, Long An, chủ yếu giống nếp IR4625) với khoảng 30.000 ha. Điểm chung nhất của 3 vùng lúa nếp này là đều sử dụng giống lúa ngắn ngày, 95 – 100 ngày và có thể trồng được 3 vụ/năm.

Về mặt khoa học, thời vụ, kỹ thuật canh tác lúa nếp không có nhiều khác biệt so với các giống lúa tẻ. Điều khác biệt rõ nhất có thể kể đến là các giống nếp đều mẫn cảm với sâu rầy, nhất là rầy nâu, nhện gié và đạo ôn. Bởi vậy, bà con cần tuân thủ xuống giống theo nguyên tắc đồng loạt, tập trung, né rầy và áp dụng các biện pháp kỹ thuật phổ biến như “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”.

Ngoài ra, so với một số giống lúa tẻ, lúa nếp có phần dài ngày và yếu rạ hơn. Vì vậy, quá trình canh tác qua nhiều năm, nông dân cũng đúc rút kinh nghiệm bón phân cân đối, không bón thừa đạm, nhất là bón đúng thời điểm cây lúa cần.

Thực tế, trong điều kiện biến đổi khí hậu, hạn mặn xâm nhập sâu vào nội đồng, sâu bệnh hại ngày một tác động mạnh hơn đến lúa nếp. Chăm sóc cây lúa nếp khỏe ngay từ đầu vụ với quy trình bón phân thông minh sẽ giúp bà con đạt được “hiệu quả kép” về năng suất, chất lượng, giúp cân bằng môi trường đất nước, hạn chế lượng thuốc BVTV trên đồng ruộng.

NHỮNG ĐIỂM CẦN LƯU Ý KHI CANH TÁC LÚA NẾP

Vùng đất trồng nếp phải chuyên canh, làm cùng một giống để tránh lẫn giống của vụ trước sang vụ sau.

Sử dụng giống lúa nếp có độ thuần cao, tiêu chuẩn giống xác nhận 1. Làm đất kỹ, có mặt bằng tốt và đánh rãnh nước sâu 20 – 30 cm, ngang 20 – 30 cm; cách 6 – 8 m có 1 rảnh để xổ phèn, xổ mặn, tháo nước khi cần.

Sạ cấy: Có thể sạ lan 80 kg/ha hoặc cấy 50 – 60 kg/ha, gần đây có máy sạ cụm (sạ khóm) tiết kiệm giống chỉ cần 50 – 60 kg/ha.

Thời vụ gieo sạ: Tuân thủ nghiêm nhặt theo lịch gieo sạ đồng loạt, tập trung né rầy và theo con nước của ngành nông nghiệp khuyến cáo.

Cây lúa nếp với đặc tính yếu, nên nếu bón thừa phân đạm, cây sẽ dễ bị nhiễm sâu bệnh, dễ đổ ngã, gây thất thoát năng suất, ảnh hưởng đến chất lượng nếp, và gia tăng chi phí đầu vào. Đồng thời, trước khi thu hoạch không phun thuốc BVTV sẽ vừa gây lãng phí vừa ảnh hưởng đến chất lượng hạt, tồn dư thuốc BVTV…

cau-chuyen-giam-phan-bon-trong-trong-trot-hien-nay

Câu chuyện ‘giảm phân bón’ trong trồng trọt hiện nay

Câu chuyện ‘giảm phân bón‘ trong trồng trọt hiện nay đang rất được quan tâm. Vì khi sử dụng quá nhiều phân bón sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng đến cả cây trồng.

cau-chuyen-giam-phan-bon-trong-trong-trot-hien-nay

Chất thải phân bón và áp lực lên đất

Áp lực thâm canh trong sản xuất nông nghiệp ngày càng gia tăng. Trong 20 năm qua (2000 – 2020) tổng lượng phân hoá học sử dụng ở nước ta về lý thuyết dao động từ 215 – 415 kg chất khoáng tiêu chuẩn / ha (DDK / ha), bình quân khoảng 350 kg DDK / ha. /năm.

Nhìn chung, lượng phân hóa học sử dụng của Việt Nam tương đương với các nước có nền thâm canh tiên tiến trong khu vực (Hàn Quốc 467 kg / ha, Nhật Bản 403 kg / ha, Trung Quốc 390 kg / ha). Tuy nhiên, ở nước ta, đặc biệt là những vùng đông dân cư như đồng bằng sông Hồng, cường độ canh tác ngày càng đáng báo động vì nó tạo áp lực phân bón nhiều hơn cho đất nông nghiệp.

Mật độ canh tác ở nhiều nơi lên đến trên 1.000 đơn vị DDK / ha / năm, thậm chí cao hơn ở những vùng chuyên canh rau màu, cà phê, hồ tiêu, vùng trồng hoa ven đô.

Áp lực phân bón lên đất nông nghiệp đã tăng 30 – 50% so với giai đoạn 1980 – 2000. Thực tế này đặt ra cảnh báo về sự gia tăng phú dưỡng phốt pho và nitơ, đặc biệt là trong các hệ thống thâm canh lúa, cà phê và các cây trồng kinh tế khác. Mặt khác, cần nhấn mạnh rằng xu hướng sử dụng phân bón hóa học ở các nước công nghiệp phát triển, mặc dù trước đây là cao, nhưng đã giảm đáng kể trong những năm gần đây.

Theo thống kê, tổng lượng phân bón sử dụng trong những năm gần đây khoảng 10 triệu tấn / năm (năm 2020 là 10,23 triệu tấn), tuy nhiên hiệu quả vẫn thấp, chỉ đạt dưới 50%. Các nghiên cứu cho thấy hàng năm có 40-60% lượng phân bón bị thất thoát trong các hệ thống canh tác, điều này không chỉ gây lãng phí (hơn 2 tỷ USD về tài chính) mà còn gây ô nhiễm môi trường và tăng phát thải khí nhà kính (GHG).

Nông nghiệp hữu cơ vẫn chưa thể giải quyết vấn đề an ninh lương thực

Nhìn thấy mặt trái của phân bón hóa học và hóa chất bảo vệ thực vật, có một xu hướng đang ngày càng được khuyến khích: nông nghiệp hữu cơ – bác bỏ hoàn toàn các thành tựu của hóa chất nông nghiệp.

Mặc dù xu hướng nông nghiệp hữu cơ đang ngày càng gia tăng, nhưng số liệu và thực tế đã chứng minh rằng chỉ “dựa vào thiên nhiên và nguồn nước từ bầu trời” là không đủ để đảm bảo cuộc sống đủ đầy cho nhân loại.

Hạn hán, lũ lụt và xâm nhập mặn đã gây ra nạn đói ở nhiều vùng. Xóa đói giảm nghèo trở thành mục tiêu số một của thiên niên kỷ về phát triển bền vững. Các thí nghiệm trồng cây không sử dụng phân bón vẫn cho năng suất nhưng chỉ tương đương 20 – 30% tổng năng suất hiện nay.

FAO và WHO dự báo đến cuối năm nay sẽ có tới một tỷ người rơi vào cảnh nghèo đói. An ninh và an toàn thực phẩm, điều tối quan trọng đối với nhân loại, vẫn là chủ đề thảo luận hàng đầu ngay cả trong và sau đại dịch Covid-19.

Giảm phân bón hóa học và phát triển nông nghiệp tuần hoàn sinh thái: xu hướng tất yếu

cau-chuyen-giam-phan-bon-trong-trong-trot-hien-nay

Như đã đề cập ở trên, chỉ 50% lượng phân hóa học được sử dụng được coi là hiệu quả, trong khi 50% còn lại bị thất thoát trong hệ thống và thải ra môi trường, dẫn đến câu hỏi liệu có nên chỉ 50% lượng phân hóa học so với số lượng được sử dụng ngày nay.

Đó không phải là cách vấn đề tối ưu hóa hoạt động.

Về phản ứng sinh học, năng suất tốt nhất là phản ứng quang hợp tự nhiên, nhưng tối đa vẫn chỉ đạt 68% so với lý thuyết. Chưa có quốc gia nào đặt tỷ lệ giảm phân bón hóa học là 50% trên quy mô toàn quốc. Trung Quốc đưa ra mức giảm 10% đối với phân khoáng trong vòng 10 năm (1% / năm). Tỷ lệ giảm trên thực tế phụ thuộc vào lịch sử canh tác, mùa vụ, loại đất, thời tiết và mức năng suất mong muốn của mỗi quốc gia.

Các nước phát triển hiện đã thực hành nông nghiệp chính xác. Chúng ta có các công thức khá phổ biến như “1 phải, 5 giảm” (1P5G) hoặc “3 giảm 3 tăng” (3G3T). Với cơ sở dữ liệu lớn và thông tin khí tượng tức thời, kỹ thuật nông nghiệp đang hướng tới nông nghiệp chính xác: đúng hơn, đủ và chính xác hơn sự thụ tinh.

su-dung-phan-bon-tren-cay-an-trai-dat-hieu-qua-cao

Sử dụng phân bón trên cây ăn trái đạt hiệu quả cao

Sử dụng phân bón trên cây ăn trái đạt hiệu quả cao – sử dụng phân bón tiết kiệm, hiệu quả là vấn đề nhà nông nên quan tâm để canh tác có hiệu quả, mang lại lợi nhuận.

su-dung-phan-bon-tren-cay-an-trai-dat-hieu-qua-cao

Nâng cao hiệu quả sử dụng phân bón

Theo GS.TS Trần Văn Hâu, giảng viên khoa Nông nghiệp (Trường Đại học Cần Thơ), phân bón sẽ đem lại hiệu quả, chất lượng và năng suất nếu chúng ta bón đúng cách. Ngược lại, vườn cây chẳng những không có năng suất, chất lượng mà còn mất tiền. Trong bối cảnh giá phân bón tăng cao như hiện nay, nhà nông cần cân nhắc phương pháp sử dụng để có chất lượng như mong muốn.

Muốn sử dụng phân bón hiệu quả, nhà nông cần sử dụng phân bón theo nguyên tắc “4 đúng”. Thứ nhất là bón đúng thời kỳ cây cần. Các loại trái cây hầu như có đặc tính sinh trưởng gián đoạn có tính thời kỳ. Thời kỳ ra đọt, ra hoa, phát triển, mỗi thời kỳ đòi hỏi một nhu cầu dinh dưỡng khác nhau nên cách bón khác nhau.

Trong một thời kỳ, lại chia từng giai đoạn như khi mới đậu trái, nuôi trái, lớn nhanh… Chỉ cần bón không đúng thời kỳ, chẳng những trái không đạt mà còn giảm năng suất. Mỗi lần bón phân, bà con tưới nước liên tục thì năng suất cao.

Thứ hai, cần bón đúng phân. Phân bón có đa lượng và vi lượng. Một số doanh nghiệp chia thêm trung lượng. Đa lượng là đạm, lân, kali. Vi lượng là canxi, magie, lưu huỳnh, sắt đồng, kẽm, mangan… Bón tỷ lệ đúng thì mới hiệu quả, nếu không sẽ có hại.

Thứ ba, cần bón đúng liều lượng phân tuỳ thuộc vào giai đoạn, tuổi cây, năng suất… Bón phân phải “nhìn cây, nhìn đất, nhìn trời” để quyết định lượng phân. Tùy vào đất xấu hay tốt để có quy trình, lượng bón khác nhau. Việc bón phân cũng cần xem tình hình thời tiết.

Cuối cùng, phải bón đúng cách. Thông thường đối với đất vườn thì phân bón hay bị rửa trôi, do đó bà con phải xới đất tơi xốp để giữ phân sau khi cây sử dụng không hết.

Theo Thạc sỹ Lê Trí Nhân, công tác tại Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bến Tre: Bà con bón nhiều phân hoá học sẽ làm giảm pH đất. Bón nhiều phân hữu cơ tươi cũng sẽ làm chua đất. Do đó, bà con nên thiết kế hệ thống canh tác, để nước ra vô thường xuyên làm đất bớt chua.

Mặt khác, bà con cần điều chỉnh độ pH, từ đó sẽ điều chỉnh hiệu quả sử dụng phân bón. Chẳng hạn nếu pH <4.5, mỗi kg phân bón bà con lãng phí khoảng 70%. Nếu pH được nâng lên 5.0, mỗi kg phân bón bà con vẫn còn lãng phí hơn 53%. Đối với đất thường, pH bằng 6.0, mức hiệu quả sử dụng phân bón cũng chỉ mới đạt 80%, bà con vẫn còn lãng phí 20%. Tuy nhiên đối với đất trung tính, pH bằng 7.0 thì hiệu quả sử dụng phân bón lên đến 100%

su-dung-phan-bon-cho-vu-lua-xuan

Sử dụng phân bón cho vụ lúa xuân

Sử dụng phân bón cho vụ lúa xuân cần chú trọng những điều sau.

su-dung-phan-bon-cho-vu-lua-xuan

Yêu cầu đất đai và thời vụ trồng lúa ở Việt Nam

Cây lúa không kén đất. Ở nước ta lúa có thể được trồng và cho năng suất trên hầu hết các loại đất: Đất phù sa của các hệ thống sông, đất phèn, đất mặn, đất bạc màu. Tuy vậy năng suất lúa cũng rất khác nhau phụ thuộc vào các yếu tố hạn chế của đất. Đất mặn yếu tố hạn chế chính là nồng độ Cl- cao, EC lớn cho nên phải sử dụng các giống có khả năng chịu mặn. Đối với đất phèn yếu tố hạn chế chính là thiếu lân và nồng độ Al+3 và Fe+2, canh tác lúa trên loại đất này phải chọn những giống có khả năng chống chịu với các hạn chế trên. Đất bạc màu, yếu tố hạn chế chính là hàm lượng kali tổng số và dễ tiêu thấp.

Thời vụ trồng lúa đông xuân ở Việt Nam

Ở nước ta có 2 vùng khí hậu chính: Từ đèo Hải Vân trở ra phía Bắc có khí hậu cận nhiệt đới, có mùa đông lạnh và mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều nên trồng lúa xuân để đạt năng suất cao phải chọn lịch gieo trồng thích hợp.

Lịch gieo cấy lúa xuân vùng đồng bằng Bắc bộ: Vụ xuân sớm gieo 20-25/11, cấy 15/1, gặt cuối tháng 5, đầu tháng 6; Vụ xuân chính vụ gieo 10-20/12, cấy 15/2, gặt tháng 6; Vụ xuân muộn gieo 20/1-5/2, cấy 5/3, gặt cuối tháng 6. Hiện nay hầu hết các tỉnh ở đồng bằng sông Hồng cấy xuân chính vụ và xuân muộn, một số tỉnh/thành như: Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hà Nội tỷ lệ xuân muộn tới 80-90% và diện tích sử dụng giống lúa lai cũng tăng lên.

Phía Nam đèo Hải Vân có khí hậu nhiệt đới điển hình nên có thể gieo trồng lúa ở bất cứ thời điểm nào trong năm, tuy vậy đối với vụ đông xuân thì lịch gieo trồng như sau:

Vụ đông xuân sớm gieo 6/11; Vụ đông xuân chính vụ gieo 21/11; Vụ đông xuân muộn gieo 6/12. Tất cả còn phụ thuộc vào độ ngập nông hay sâu, lũ rút sớm hay muộn. Ở miền Nam thường sử dụng những giống ngắn ngày.

Hệ số bón phân bón của cây lúa:

Tùy theo chân đất, giống lúa, thời vụ gieo cấy, lượng phân bón mà hệ số sử dụng đạm, lân và kali cũng khác nhau. Trong điều kiện lúa nước ở Việt Nam hệ số sử dụng như sau:

Đạm 30 – 45% hoặc 30 – 50%.

Lân 15 – 25% hoặc 20 – 30%.

Kali 40 – 50% hoặc 50%.

(40% chỉ đạt được nếu bón đạm 2 – 4 lần)

Mức khuyến cáo bón phân ở Việt Nam

Ở đồng bằng sông Hồng với mức bón phân chuồng 5 – 6 tấn/ha để đạt năng suất lúa 5,5 tấn/ha thì lượng bón khuyến cáo như sau: Lượng bón (kg/ha) đất phù sa sông Hồng N 100-110 kg/ha; P2O5 40-50 kg/ha; K2O 30-40 kg/ha; Đất phù sa sông Gâm N 90-100kg/ha; P2O5 50-60kg/ha; K2O 30-40 kg/ha; Đất phèn N 90-100kg/ha, P2O5 60-70 kg/ha; K2O 30-40 kg/ha; Đất bạc màu N 100-110 kg/ha; P2O5 60-70 kg/ha; K2O 60-70 kg/ha.

Cho vùng đồng bằng sông Cửu Long: Phù sa sông Cửu Long vụ đông xuân N 110-120 kg/ha; P2O5 30-40 kg/ha; K2O 30-40 kg/ha; Đất phèn nhẹ vụ đông xuân N 90-100 kg/ha; P2O5 40-50 kg/ha; K2O 10-20 kg/ha; Đất xám vụ đông xuân N 100-110 kg/ha; P2O5 40-50 kg/ha; K2O 70-80 kg. Muốn có bội thu năng suất thêm 1 tấn/ha (đối với giống lúa lai và giống có năng suất cao cần phải bón thêm 20 kg P2O5 và 30 kg. Đạm bón theo thang màu lá lúa. Lượng bón thực tế có thể dao động ± 10-20% tổng số đạm bón và ngày bón phụ thuộc trạng thái đạm của cây ở từng giai đoạn phát triển).

them-mot-goc-nhin-khac-ve-thuc-pham-huu-co

Thêm một góc nhìn khác về thực phẩm hữu cơ

Thêm một góc nhìn khác về thực phẩm hữu cơ. Mục tiêu chỉ đơn giản là củng cố niềm tin vào thị trường thực phẩm hữu cơ đang phát triển nhanh nhưng bị phân mảnh.

them-mot-goc-nhin-khac-ve-thuc-pham-huu-co

Chợ hóa chất hữu cơ

Yếu tố quan trọng quyết định liệu thứ gì đó có đủ tiêu chuẩn là hữu cơ hay không lại là một thứ khá trần trụi có tên “phương pháp sản xuất”. Đối với cây trồng, nguồn gốc của hạt giống là chìa khóa – nó phải được trồng theo phương pháp hữu cơ và không thể là sản phẩm của kỹ thuật di truyền (GMO hoặc chỉnh sửa gen).

Có một cách hiểu phổ biến rằng, thực phẩm hữu cơ được trồng mà không có hóa chất – và các cửa hàng kinh doanh mặt hàng này đã góp phần làm nên ấn tượng này. Thực tế là có tới trên 100 loại phân bón và nguyên liệu đầu vào (thuốc trừ sâu, thuốc diệt côn trùng hoặc thuốc diệt nấm) được cho phép trong canh tác hữu cơ ở cả châu Âu lẫn Mỹ.

Các quy định hữu cơ được thiết kế để thúc đẩy việc sử dụng hóa chất tự nhiên thay vì các quy định tổng hợp. Nhưng do nhiều loại hóa chất tự nhiên không kiểm soát tốt sâu bệnh và mặc dù sự vắng mặt của thuốc trừ sâu tổng hợp thường được trích dẫn để ủng hộ các chất hữu cơ. Trên thực tế nông dân sản xuất hữu cơ đã được Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) chấp thuận cho sử dụng hàng chục loại hóa chất tổng hợp, từ vacxin cho động vật đến chất dẫn dụ pheromone côn trùng, hoặc cho dùng thuốc trừ sâu không tổng hợp (có thể kém hiệu quả hơn thuốc trừ sâu tổng hợp) để triển khai ở cấp độ cao hơn so với canh tác phi hữu cơ.

Nông nghiệp hữu cơ có bền vững hơn không?

Quan điểm này đối với đa số người ủng hộ thực phẩm “tự nhiên” là thực phẩm hữu cơ rõ ràng là tốt hơn cho môi trường so với thực phẩm thông thường. Tuy nhiên ngay cả điều này cũng là vấn đề còn gây nhiều tranh cãi.

Ví dụ đánh giá về năng suất cây trồng, rõ ràng khi nền nông nghiệp và công nghệ phát triển, có thể làm ra nhiều lương thực hơn trên một diện tích đất ít hơn. Đó là một chiến thắng cho môi trường. Nhưng vì các quy tắc quản lý nông nghiệp hữu cơ ngăn cản việc sử dụng một số phương pháp hiện đại, nên cây trồng hữu cơ không thể phát triển hiệu quả và đòi hỏi nhiều đất canh tác hơn để sản xuất một lượng lương thực nhất định. Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí Nature, năng suất hữu cơ thấp hơn 34% so với canh tác thông thường.

Nhà sinh vật học cây trồng Steve Savage đã xem xét tác động của việc chuyển đổi toàn bộ sản lượng nông nghiệp của Mỹ sang hữu cơ. Các phân tích, xuất bản bởi Dự án Genetic Literacy phát hiện ra rằng, để bù đắp cho hiệu quả sản xuất hữu cơ năng suất thấp hơn sẽ đòi hỏi việc phải trồng nhiều hơn thêm tới 100 triệu mẫu – một diện tích canh tác lớn hơn cả bang California…

Biến đổi khí hậu thì sao?

Nông nghiệp hữu cơ đặc biệt có vấn đề khi đề cập đến vấn đề biến đổi khí hậu. Một nghiên cứu gần đây đã “đóng sầm cánh cửa hữu cơ” vì thiếu vắng sự đổi mới liên quan đến tác động của biến đổi khí hậu, cũng như các công ty thực phẩm hữu cơ luôn chống lại việc áp dụng các công nghệ mới có thể cắt giảm khí thải độc hại.

Nhiều người ủng hộ hữu cơ, bao gồm cả các chính trị gia ở Liên minh Châu Âu, quảng bá thứ gọi là “Thỏa thuận Xanh từ nông trại đến bàn ăn (F2F)”, nhằm mục đích chuyển phần lớn đất nông nghiệp châu Âu sang sản xuất hữu cơ trong thập kỷ tới. Tuy nhiên các nhà khoa học độc lập cho rằng, đó sẽ là một thảm họa khi dẫn chứng một nghiên cứu vào năm 2019 đánh giá tác động tiềm tàng đối với Xứ Wales một khi đáp ứng các mục tiêu của Thỏa thuận Xanh F2F.

Cụ thể là muốn đẩy năng suất hữu cơ tăng lên 40% thì cũng tăng lượng phát thải khí nhà kính lên tới 58%. Theo đó, thay vì sản xuất đủ để nuôi dân số của mình, các nước châu Âu cần phải bắt đầu nhập khẩu lương thực. Điều này đồng nghĩa với việc tăng sản lượng lương thực ở các nước khác – một kết quả có thể dẫn đến việc chặt phá rừng nhiệt đới trên khắp thế giới.

Chống lại các thành kiến công nghệ

Thị trường thực phẩm hữu cơ vẫn bị thổi phồng và được cho là chưa trung thực. Ảnh: Getty

Rào cản cuối cùng đối với thực phẩm hữu cơ là nó làm gia tăng lo ngại về sự an toàn của các sinh vật biến đổi gen. Tuy nhiên, hơn 90% ngô, bông và đậu nành của Mỹ là cây trồng biến đổi gen. Hơn một nửa diện tích trồng trọt GMO hiện đang được sản xuất ở các nước đang phát triển. Không có nghiên cứu đáng tin cậy nào cho thấy, bất kỳ rủi ro nào từ việc ăn thực phẩm GMO, bởi chúng đã được bán ở khắp nước Mỹ từ năm 1994.

Tính đến nay đã có hơn 150 người đoạt giải thưởng Nobel danh giá đều đã chứng thực sự an toàn của thực phẩm GMO bởi kỹ thuật di truyền giúp bảo vệ môi trường. Ngoài ra, các công cụ chỉnh sửa gen như CRISPR còn có thể tăng cường khả năng kháng sâu bệnh, tăng năng suất cây trồng và giảm lượng khí thải liên quan đến canh tác.

Thực tế thì cây trồng biến đổi gen là chìa khóa để thúc đẩy phát triển nông nghiệp bền vững. Những người chỉ trích thực phẩm GMO bỏ qua rằng, các biến thể biến đổi gen đã cứu nhiều loại cây trồng thực phẩm ở Hawaii (đu đủ), Bangladesh (cà tím) và nhiều loại cây trồng khác đòi hỏi khả năng kháng bệnh và chống chịu sâu bệnh.

Gần đây một loại khoai tây mới được lai tạo để sản xuất tại châu Phi đã không cần tới thuốc diệt nấm để chống lại bệnh bạc lá, có thể phá hủy tới 60% mùa ở một quốc gia như Uganda. Những nỗ lực nhằm làm giảm giá trị của các loại thực phẩm biến đổi gen năng suất cao, kháng bệnh như vậy đã cản trở sự tiến bộ và thịnh vượng cho nông dân châu Phi và châu Á